Tiêu chuẩn thẩm định giá số 2_Giá trị phi thị trường Download tieu chuan so 2
Normal
0
false
false
false
EN-US
X-NONE
X-NONE
MicrosoftInternetExplorer4
HỆ
THỐNG TIÊU CHUẨN THẨM ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM
Tiêu chuẩn số 02
Giá trị phi thị
trường làm cơ sở cho thẩm định giá tài sản
(Ký hiệu: TĐGVN 02)
(Ban hành kèm theo Quyết định số 77/ 2005/QĐ-BTC
ngày 01 tháng 11 năm 2005 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
01- Mục đích của tiêu chuẩn này là quy định
nội dung về giá trị phi thị trường của tài sản và vận dụng giá trị phi thị
trường khi tiến hành thẩm định giá tài sản.
Hoạt động thẩm định giá phần lớn
là dựa trên cơ sở giá trị thị trường, tuy nhiên có những loại tài sản riêng
biệt, mục đích thẩm định giá riêng biệt đòi hỏi thẩm định giá phải dựa trên giá
trị phi thị trường.
Thẩm định viên và người sử dụng
dịch vụ thẩm định phải phân biệt rõ sự khác nhau giữa giá trị thị trường và giá
trị phi thị trường để đảm bảo đưa đến kết quả thẩm định giá khách quan.
02- Phạm vi áp dụng: Doanh nghiệp, tổ chức thẩm định
giá và thẩm định viên về giá (sau đây gọi là thẩm định viên) phải tuân thủ
những quy định tại tiêu chuẩn này trong quá trình sử dụng giá trị phi thị
trường làm cơ sở thẩm định giá.
NỘI
DUNG TIÊU CHUẨN
03- Nội dung giá trị phi thị trường của tài sản:
Giá
trị phi thị trường của tài sản là mức giá ước tính được xác định theo những căn
cứ khác với giá trị thị trường hoặc có thể được mua bán, trao đổi theo các mức
giá không phản ánh giá trị thị trường như: giá trị tài sản đang trong quá trình
sử dụng, giá trị đầu tư, giá trị bảo hiểm, giá trị đặc biệt, giá trị thanh lý,
giá trị tài sản bắt buộc phải bán, giá trị doanh nghiệp, giá trị tài sản chuyên
dùng, giá trị tài sản có thị trường hạn chế, giá trị để tính thuế...
04- Nội dung trên được hiểu như sau:
a)
Việc đánh giá giá trị tài sản được căn cứ chủ yếu vào công dụng kinh tế, kỹ
thuật hoặc các chức năng của tài sản hơn là căn cứ vào khả năng được mua bán
trên thị trường của tài sản đó.
b) Giá trị tài sản đang trong quá trình
sử dụng là giá trị phi thị trường được xem xét từ giác độ một người sử dụng
riêng biệt tài sản vào một mục đích riêng biệt.
Khi tiến hành thẩm định giá loại tài sản
này, thẩm định viên tập trung chủ yếu vào khía cạnh tham gia, đóng góp của tài
sản vào hoạt động của một dây chuyền sản xuất, một doanh nghiệp… không xét đến
khía cạnh giá trị sử dụng tốt nhất, tối ưu của tài sản hoặc số tiền có thể có
từ việc bán tài sản đó trên thị trường.
c) Giá trị tài sản có thị trường hạn chế
là giá trị của tài sản do tính đơn chiếc, hoặc do những điều kiện của thị
trường, hoặc do những nhân tố khác tác động làm cho tài sản này ít có khách
hàng tìm mua, tại một thời điểm nào đó.
Đặc điểm quan trọng cần phân biệt
của tài sản này không phải là không có khả năng bán được trên thị trường công
khai mà để bán được đòi hỏi một quá trình tiếp thị lâu dài hơn, tốn nhiều chi
phí và thời gian hơn so với những tài sản khác.
d) Giá trị tài sản chuyên dùng là giá
trị tài sản do có tính chất đặc biệt, chỉ được sử dụng hạn hẹp cho một mục đích
hoặc một đối tượng sử dụng nào đó nên có hạn chế về thị trường.
e) Giá trị doanh nghiệp là giá
trị toàn bộ tài sản của một doanh nghiệp. Giá trị của mỗi tài sản cấu thành
tổng tài sản của doanh nghiệp không thể tách rời nhau và cũng không thể thẩm
định trên cơ sở giá trị thị trường.
Giá trị doanh nghiệp phải được
xem xét trên tổng thể tài sản, không phải là giá trị của từng tài sản riêng rẽ,
bao gồm tài sản hữu hình và tài sản sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp.
Một tài sản nếu để riêng biệt có thể
không phát huy được giá trị sử dụng nhưng khi kết hợp với một tài sản khác lại
có thể phát huy được giá trị sử dụng của chính tài sản đó. Giá trị của từng tài
sản riêng rẽ được xác định dựa trên phần đóng góp của tài sản đó vào hoạt động
của toàn bộ doanh nghiệp nên không liên quan đến thị trường, không tính đến giá
trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản đó cũng như số tiền mà tài sản đó
mang lại khi được mang ra bán.
Giá trị tài sản đang trong quá
trình sử dụng của doanh nghiệp có xu hướng cao hơn giá trị thị trường của tài
sản khi doanh nghiệp đang kinh doanh hiệu quả, thu được lợi nhuận cao hơn so
với doanh nghiệp cùng sản xuất sản phẩm tương tự; ngược lại có xu hướng thấp
hơn giá trị thị trường khi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Giá trị tài sản
đang trong quá trình sử dụng cũng có xu hướng cao hơn giá trị thị trường khi
doanh nghiệp có bằng sáng chế, giấy phép, hợp đồng sản xuất những sản phẩm đặc
biệt, hoặc doanh nghiệp có uy tín đặc biệt, họăc các dạng tài sản thuộc sở hữu
trí tuệ khác mà các doanh nghiệp cùng loại hình kinh doanh khác không có.
f) Giá trị thanh lý là giá trị
ước tính thu được khi hết thời gian sử dụng hữu ích của tài sản sau khi trừ chi
phí thanh lý ước tính.
Giá trị thanh lý phản ánh giá trị
còn lại của một tài sản (trừ đất đai) khi tài sản đó đã hết hạn sử dụng và được
bán thanh lý. Tài sản vẫn có thể được sửa chữa, hoặc hoán cải cho mục đích sử
dụng mới hoặc có thể cung cấp những bộ phận linh kiện rời cho những tài sản
khác còn hoạt động.
g) Giá trị tài sản bắt buộc phải bán là
tổng số tiền thu về từ bán tài sản trong điều kiện thời gian giao dịch để bán
tài sản quá ngắn so với thời gian bình thường cần có để thực hiện giao dịch mua
bán theo giá trị thị trường, người bán chưa sẵn sàng bán hoặc bán không tự
nguyện, bị cưỡng ép.
Một cuộc mua bán bắt buộc liên
quan đến một mức giá được hình thành trong một tình huống mà thời gian tiếp thị
không phù hợp cho việc mua bán hoặc trong điều kiện người bán chưa sẵn sàng bán
và người mua tài sản biết rõ việc chưa sẵn sàng bán đó hoặc người bán phải bán
tài sản một cách cưỡng ép, không tự nguyện. Giá cả trong những cuộc mua bán tài
sản như vậy gọi là giá trị tài sản bắt buộc phải bán, không phản ánh giá
trị thị trường.
Trong những cuộc mua bán như vậy
thẩm định viên phải tìm hiểu và mô tả đầy đủ, chi tiết trong báo cáo thẩm định
hòan cảnh pháp lý, xã hội, tự nhiên để xác định bản chất của việc mua bán và
mức giá thể hiện.
h) Giá trị đặc biệt là giá trị tài sản
được hình thành khi một tài sản này có thể gắn liền với một tài sản khác về mặt
kỹ thuật hoặc kinh tế và vì thế chỉ thu hút sự quan tâm đặc biệt của một số ít
khách hàng hoặc người sử dụng nên có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá
giá trị thị trường.
Giá trị đặc biệt của một tài sản
được hình thành do vị trí, tính chất đặc biệt của tài sản, hoặc từ một tình
huống đặc biệt trên thị trường, hoặc từ một sự trả giá vượt quá giá trị thị
trường của một khách hàng muốn mua tài sản đó với bất cứ giá nào để có được
tính hữu dụng của tài sản.
i) Giá trị đầu tư là giá trị của
một tài sản đối với một hoặc một nhóm nhà đầu tư nào đấy theo những mục tiêu
đầu tư đã xác định.
Giá trị đầu tư là khái niệm có tính chủ quan liên
quan đến những tài sản cụ thể đối với một nhà đầu tư riêng biệt, một nhóm các
nhà đầu tư hoặc một tổ chức với những mục tiêu và/hoặc tiêu chí đầu tư xác
định. Giá trị đầu tư của một tài sản có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thị
trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị thị trường có thể phản ánh nhiều đánh
giá cá biệt về giá trị đầu tư của một tài sản cụ thể.
k) Giá trị bảo hiểm là giá trị của tài sản được quy
định trong hợp đồng hoặc chính sách bảo hiểm.
l) Giá trị để tính thuế là giá
trị dựa trên các quy định của luật pháp liên quan đến việc đánh giá giá trị tài
sản để tính khoản thuế phải nộp.
05-
Tuỳ theo từng mục đích thẩm định giá cụ thể, thẩm định viên có thể sử dụng giá
trị phi thị trường làm cơ sở cho việc thẩm định giá. Trong quá trình thẩm định
giá, thẩm định viên phải dựa trên các dữ liệu và điều kiện thực tế để xác định
giá trị phi thị trường của tài sản cần thẩm định giá.
06-
Để bảo đảm không có sự nhầm lẫn giữa xác định giá trị thị trường và giá trị phi
thị trường, thẩm định viên phải tuân theo các bước sau:
a) Xác định rõ đối tượng được thẩm định
giá;
b) Xác định rõ các quyền lợi pháp lý gắn
với tài sản được thẩm định giá;
c) Xác định rõ mục đích của thẩm định
giá tài sản;
d) Xác định giá trị làm cơ sở cho thẩm
định giá;
e) Khảo sát thực tế tài sản cần thẩm
định giá và bảo đảm các bước công khai cần thiết;
f) Công bố công khai những điều kiện
hoặc tình huống bị hạn chế trong quá trình thẩm định giá;
g) Phân tích, xem xét các số liệu, tình
huống phù hợp với nhiệm vụ thẩm định giá.
Nếu công việc thẩm định giá căn cứ vào
những cơ sở phi thị trường, thì giá trị thu được là giá trị phi thị trường
(không phải là giá trị thị trường) và phải được ghi rõ trong báo cáo thẩm định
giá.
h) Xác định thời gian hiệu lực của kết
quả thẩm định giá.
07- Thẩm định viên phải trình bày mục đích và căn cứ thẩm định
giá một cách rõ ràng, phải thể hiện tính công khai, minh bạch trong báo cáo kết
quả thẩm định giá của mình cũng như trong chứng thư thẩm định giá, cụ thể là:
- Báo cáo kết quả và chứng thư thẩm định
giá phải nêu rõ các căn cứ, mục đích của việc thẩm định giá nhằm tránh sự hiểu
nhầm cho khách hàng, cho người sử dụng kết quả thẩm định giá hoặc bên thứ ba.
Thẩm định viên phải tuân theo các bước tại mục 06 nêu trên.
- Báo cáo kết quả và chứng thư thẩm định giá dựa trên giá trị
phi thị trường phải nêu rõ những điều kiện hạn chế ảnh hưởng đến kết quả thẩm
định giá. Thẩm định viên không được sử dụng những hạn chế này để làm sai lệch
kết quả thẩm định giá.
- Khi tiến hành thẩm định giá dựa trên giá trị phi thị trường, thẩm định viên không được
đưa ra những giả thiết mâu thuẫn với những số liệu làm cơ sở cho thẩm định giá.
Mọi giả thiết, các phân tích và phương pháp thẩm định giá phải được nêu ra một
cách công khai trong báo cáo kết quả và chứng thư thẩm định giá.
- Khi thẩm định giá dựa trên giá trị phi
thị trường, thẩm định viên phải công khai hoá toàn bộ các nguồn tài liệu tham
khảo mà thẩm định viên dựa vào đó để đưa ra ý kiến của mình về giá trị tài sản
trong báo cáo kết quả thẩm định giá.
|