Hạ lãi suất: Đừng mạo hiểm đánh đổi Hạ lãi suất: Đừng mạo hiểm đánh đổi
12/12/2011 10:10
Điều quan trọng là phải nhận thức được và
hành động đúng để kiềm chế được lạm phát, bằng chính sách lãi suất cao.
Không nên vì sự hy sinh trong ngắn hạn để kêu gọi làm ngược lại, hạ lãi
suất khi lạm phát đang ở mức cao.
Bài này được viết ra như một lời phúc đáp, tuy không phải là tổng quát
và đầy đủ, cho luồng ý kiến kêu gọi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) hạ lãi suất cho vay (thông qua nới lỏng chính sách tiền tệ) để
"cứu" các doanh nghiệp và các ngành như bất động sản, ngân hàng và chứng
khoán. Thường có hai lý do chính được đưa ra để biện minh cho lời kêu
gọi này là:
Thứ nhất, với lãi suất cao như hiện nay sẽ là thảm họa cho nền kinh tế,
làm mất sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, làm các doanh
nghiệp phá sản vì không doanh nghiệp nào làm ra lãi với tỷ suất lợi
nhuận bằng hoặc lớn hơn lãi suất đi vay, ví dụ, lên tới trên 18%/năm. Và
tiếp theo là thảm họa đến với các ngân hàng. Doanh nghiệp phá sản thì
sẽ làm giảm tăng trưởng, gia tăng thất nghiệp, gia tăng tội phạm..v.v...
Thứ hai, để hạ lãi suất cho vay thì phải hạ lãi suất huy động. Nếu hạ
lãi suất huy động (ví dụ, bằng công cụ trần lãi suất huy động như hiện
tại đang áp dụng) thì cũng không sợ bị người dân rút tiền gửi ra khỏi
ngân hàng vì người dân cũng chẳng còn lựa chọn khả dĩ nào khác (Ví dụ,
đầu tư vào vàng, bất động sản, ngoại tệ thì cũng không có lãi vì giá đã ở
mức cao). Ngụ ý tức là cứ mạnh dạn mà hạ lãi suất huy động đi, không
cần phải bận tâm chuyện thiếu hụt thanh khoản trong hệ thống ngân hàng
hay áp lực lạm phát gia tăng vì tiền không còn chui vào hệ thống ngân
hàng nữa.
Tuy nhiên, điều này cần phải được phản biện bằng các tính toán cẩn thận,
bằng các thực tế đã chứng thực không nên chủ quan. Phần tiếp theo đây
sẽ đưa ra một số lập luận để phản biện lại luồng ý kiến này.
Lãi suất cao nhưng kinh tế vẫn tăng trưởng khả quan
Chúng ta bắt đầu bằng việc nêu ra một con số rất phổ thông. Đó là tốc độ
tăng trưởng GDP trong năm nay, được dự đoán ở mức xung quanh 6%. Con số
này có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh lãi suất cho vay thực tế đứng ở
mức rất cao như cả năm vừa qua (cứ cho là ở mức trung bình 18%/năm)?
Lạm phát chưa qua, thận trọng với quyết định hạ lãi suất.
Theo luồng ý kiến kêu gọi hạ lãi suất nêu trên, thì lẽ ra với mức lãi
suất "chết chóc" như thế thì nền kinh tế phải "đình trệ" (là từ khá được
ưa dùng mới cách đây vài tháng). Nhưng với tốc độ tăng trưởng GDP lên
tới mức 6% thì kết luận này, nói cho đơn giản, là sai hoàn toàn. Tốc độ
này cũng chỉ thấp hơn 1 hoặc 2 điểm phần trăm so với những thời kỳ "cực
thịnh" của nền kinh tế Việt Nam khi nó tăng trưởng với tốc độ trung bình
trên 7% trong nhiều năm với lãi suất thường không bao giờ quá 2 chữ số.
Cũng cần lưu ý thêm rằng tốc độ tăng trưởng trong thời vàng son như đã
qua là rất gần với tốc độ "chụp giật" nếu xét đến cách thức và nguồn lực
tăng trưởng, và nền kinh tế kiểu đó sớm hay muộn cũng bị "gãy cánh",
không thể kéo dài hàng thập kỷ, từ thập kỷ này qua thập kỷ khác.
Lãi suất cao không dẫn đến đổ vỡ trong nền kinh tế và DN phá sản hàng loạt
Ta cũng phải thừa nhận rằng quả là có một số doanh nghiệp gặp khó khăn,
đóng cửa, ngừng hoạt động, hoặc phá sản (con số sơ bộ khoảng gần 50.000
doanh nghiệp phá sản trong năm nay). Nhưng ta cũng không được bỏ qua
thực tế rằng còn lớn hơn thế là con số doanh nghiệp mới được thành lập
thêm, cũng trong năm nay (dù ít hơn mọi năm nhưng vẫn có hơn 70.000
doanh nghiệp mới ra đời).
Điều này tự thân nó nói lên rằng lãi suất cao không nhất thiết gây ra đổ
vỡ. Lãi suất cao chỉ gây ra đổ vỡ trong nền kinh tế và buộc hàng loạt
doanh nghiệp phải phá sản khi và chỉ khi doanh nghiệp không được
tăng/tăng được giá bán sản phẩm và dịch vụ của mình. Điều này dễ thấy là
không hề xảy ra trên thực tế, và vì thế mới có lạm phát và lạm phát mới
có xu hướng tăng! Ngay đến cả hàng bình ổn giá mà người ta cũng còn đòi
được tăng giá và đã được cho phép tăng giá trên thực tế cơ mà?
Lãi suất cao không có nghĩa là DN không làm ra lợi nhuận đủ trả lãi vay
Như trên đã nói, ta rất hay thấy kiểu lập luận rằng với lãi suất cho
vay đến. Ví dụ 18%/năm trong khi lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp
không quá 18% nên càng sản xuất càng lỗ, dẫn đến doanh nghiệp phải đóng
cửa hàng loạt, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Không khó để thấy cái sai trong lập luận này. Đại đa số doanh nghiệp
hoạt động dựa trên đòn bẩy tài chính. Họ chỉ có một đồng vốn nhưng đi
vay ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán, cổ phiếu để huy động thêm một
hoặc nhiều hơn một đồng vốn khác. Trong khi đó, mức lợi nhuận mà người
ta thường hay nhắc đến có thể chỉ là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên
tổng doanh thu, chứ không phải là tỷ suất lợi nhuận ròng tính trên vốn
chủ sở hữu/vốn tự có của chủ doanh nghiệp. Vì vậy, thậm chí mức lợi
nhuận ròng 10% tính trên tổng doanh thu (chứ chưa nói đến mức 18%) cần
phải hiểu là một mức lợi nhuận rất khả quan rồi. Ngay cả với nhiều ngân
hàng ở Việt Nam được cho là có lãi "khủng" thì tỷ suất lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu cũng chỉ mong được ở mức 18% này thì đã được coi là thành
công rồi.
DN có thể khó khăn và phá sản nhưng không thể đổ hết lỗi cho lãi suất cao.
Tóm lại, cho dù lãi suất đi vay có là trên 18% chăng nữa thì cũng không
hề đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không có lãi hoặc lãi không đủ đề bù
đắp tiền trả lãi vay. Nói cách khác, doanh nghiệp vẫn hoàn toàn có thể
sống khỏe với lãi suất trên 18% hoặc hơn nữa.
Tất nhiên, những doanh nghiệp nào có tỷ lệ đòn bẩy tài chính càng cao
thì càng dễ phải đối mặt với rủi ro phá sản cao hơn vì không trả được nợ
khi đến hạn. Nhưng điều này là thuộc về phương châm kinh doanh và lề
lối quản trị của doanh nghiệp, và sự phá sản, nếu có, của những doanh
nghiệp này âu cũng là một cuộc sàng lọc tự nhiên để còn lại những doanh
nghiệp lành mạnh, sống khỏe bằng thực lực của mình.
Lãi suất cao không nhất thiết làm giảm an sinh xã hội
Cũng cần phải nói thêm, những người ủng hộ hạ lãi suất và nới lỏng tiền
tệ cũng hay dùng lý lẽ "đảm bảo an sinh xã hội", với lập luận rằng khi
lãi suất tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng. Kết quả là làm gia tăng thất
nghiệp, giảm tốc độ tăng tiền lương (gắn liền với tăng trưởng kinh tế)
trong bối cảnh giá cả tăng cao, tức là làm giảm an sinh xã hội.
Thực tế không phải luôn như vậy. Với chính sách để cho lãi suất lên cao,
lạm phát sẽ giảm dần vì tổng cầu bị thu hẹp, đến lượt nó lại có tác
dụng kéo lãi suất đi xuống vì cầu tín dụng giảm đi (với giả sử NHNN giữ
nguyên cung tiền). Quá trình này là tự diễn tiến với kết cục là cả lạm
phát và lãi suất trở về mức "bình thường" và tăng trưởng nhờ đó được
phục hồi cùng với cầu được phục hồi. Thời gian phục hồi/quay trở về mức
bình thường của lạm phát, lãi suất, tổng cầu và tăng trưởng sẽ phụ thuộc
phần lớn vào mức độ quyết liệt của NHNN trong việc nâng và duy trì lãi
suất cao và sự phục hồi lòng tin của giới đầu tư vào triển vọng nền kinh
tế nói chung và tính minh bạch của Chính phủ và NHNN nói riêng.
Nếu suôn sẻ, thất nghiệp do lãi suất tăng cao nếu có thì chỉ là trong
ngắn hạn để rồi sẽ biến mất khi tăng trưởng phục hồi (mà thực ra cho đến
giờ đã có thống kê đáng tin cậy nào cho thấy nạn thất nghiệp đang gia
tăng đáng kể đâu, cho dù tăng trưởng có giảm đi một chút. Và người ta
cũng thường "quên" không nói đến số việc làm mới được tạo ra, mà chỉ
chăm chăm vào số việc làm mất đi). Tiền lương thực tế nếu có bị bào mòn
dưới thời lạm phát cao sẽ không còn bị bào mòn nữa khi lạm phát chững
lại nhờ chính sách lãi suất cao. Và tiền lương thực tế cũng sẽ tiếp tục
cải thiện khi tăng trưởng phục hồi trở lại với lạm phát thấp.
Như vậy, với chính sách lãi suất cao, an sinh xã hội nếu có bị ảnh hưởng
thì rất có thể chỉ là trong ngắn hạn cho đến khi nền kinh tế quay trở
lại quỹ đạo phát triển lành mạnh trong dài hạn của nó.
Lãi suất cao không nhất thiết làm gia tăng áp lực lạm phát
Tiếp theo, xin bàn đến lập luận của rất nhiều người cho rằng lãi suất
cao sẽ làm tăng áp lực lạm phát vì lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí sản
xuất kinh doanh, và tức là làm tăng giá bán hàng hóa dịch vụ.
Nhưng như vậy người ta mới chỉ nhìn ở góc độ cung mà quên mất phía cầu.
Khi giá hàng hóa dịch vụ tăng lên mà tiền lương chưa kịp tăng tương ứng
(tiền lương thường được điều chỉnh với độ trễ so với lạm phát) thì tổng
cầu có xu hướng giảm do thu nhập khả dụng thực tế của dân cư giảm đi.
Minh họa hiển nhiên là người lao động ngày càng phải "thắt lưng buộc
bụng" trong cơn bão giá. Mà tổng cầu giảm đi sẽ đem lại hiệu ứng giảm
lạm phát như nói ở trên. Tổng cầu còn giảm bởi lãi suất tăng cao làm mọi
chủ thể kinh tế khác phải đắn đo khi đi vay với lãi suất cao để chi
tiêu, đầu tư.
Ngược lại, hạ lãi suất quá sớm không nhất thiết mang lại lợi ích cho nền kinh tế
Nếu máy móc hoặc cố tình hạ lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao thì có
nghĩa là chúng ta và NHNN đã tự mình tước đi một công cụ chính trong
công cuộc chống lạm phát, và, nguy hại hơn, sẽ càng làm tăng áp lực lạm
phát theo cơ chế tự diễn tiến (lãi suất giảm, tiền thoát khỏi hệ thống
ngân hàng càng nhiều hơn, vòng quay lưu thông tiền càng lớn hơn, áp lực
gia tăng giá cả/lạm phát càng nhiều lên, NHNN càng phải in thêm tiền để
thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nhu cầu vay vốn của
các doanh nghiệp nói chung và khu vực kinh tế nhà nước nói riêng...).
Liên quan đến ý trên, nhiều người cho rằng nếu có hạ lãi suất huy động
(nhằm làm cơ sở để giảm lãi suất cho vay) thì cũng không sợ bị dân rút
tiền gửi ra khỏi hệ thống ngân hàng, vì họ cũng chẳng biết đầu tư vào
đâu, khi thị trường vàng, ngoại tệ và bất động sản đều khó khăn, rủi ro.
Đây là một kết luận rất chủ quan. Các thị trường trên có khó khăn, rủi
ro thì cũng không đồng nghĩa với không có cơ hội sinh lời, hoặc ít nhất
là bảo toàn giá trị tài sản (so với gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất
thấp, thậm chí còn thấp hơn cả mức lạm phát). Lập luận đại loại như giá
vàng đã lên đỉnh rồi thì người dân cũng chẳng mua vào làm gì nữa cũng là
kiểu lập luận rất phi kinh tế, vì đã không ít người trên quả đất này
sai lầm về đỉnh của giá vàng trong suốt mấy thập kỷ qua. Chưa kể, giá
vàng tính theo VND ở hầu hết mọi thời điểm còn tăng nhanh hơn cả lạm
phát ở Việt Nam trong cùng kỳ nên giữ vàng vẫn có lợi hơn, đặc biệt khi
lãi suất huy động bị bóp méo so với lạm phát.
Thêm nữa, khi lãi suất tiền gửi không hấp dẫn, người ta sẵn sàng mạo
hiểm hơn để tìm những cơ hội sinh lời lớn hơn, và thị trường tín dụng
"đen" là một ví dụ điển hình, nơi cung thật và cầu thật gặp nhau tại một
cái giá thật. Nói chung, thực tiễn lâu dài sống chung với lạm phát ở
Việt Nam đã cho thấy người dân khôn ngoan, thực dụng thế nào và công cụ
lãi suất quan trọng thế nào trong việc chống lạm phát. Vì thế, xin đừng
mạo hiểm đánh cuộc với sự khôn ngoan, thực dụng của người dân trước nhu
cầu chính đáng bảo toàn giá trị tài sản của họ.
Từ những con số biết nói và những phân tích ở trên, có thể kết luận
rằng, tuy đúng là có một số doanh nghiệp gặp khó khăn, nhưng đó không
phải là hiện tượng phổ quát cho cả nền kinh tế. Vậy, cũng không phải là
quá vội vã khi kết luận rằng lãi suất cao đã không dẫn đến sự sụp đổ của
nền kinh tế như người ta hoặc là đe dọa, hoặc là e sợ. Vì thế, xin đừng
lấy đó (lãi suất cao làm doanh nghiệp phá sản) làm cái cớ để vận động
chính sách đi ngược lại lợi ích chung của cả nền kinh tế. Còn những
người điêu hành kinh tế cũng không được nao núng với những cái cớ như
vậy để ra những chính sách làm phương hại cả nền kinh tế.
Trên hết, điều quan trọng là phải nhận thức được và hành động đúng để
kiềm chế được lạm phát, bằng chính sách lãi suất cao. Không nên vì sự hy
sinh trong ngắn hạn (chưa được chứng thực) để kêu gọi làm ngược lại, hạ
lãi suất khi lạm phát đang ở mức cao.
Theo VEF
|