Cho đến cuối tháng 3, tín dụng đã tăng
trở lại nhưng đó là một mức tăng rất thấp. Trong khi đó, huy động vốn
vẫn tăng cao. Dù ngân hàng đã hạ lãi suất nhưng đầu ra vẫn tắc mà vốn
đầu vào thì vẫn tiếp tục tăng cao.
Tình
thế ứ vốn hiếm hoi của các ngân hàng trong mấy năm gần đây là dấu hiệu
tốt về thanh khoản của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, ở chiều ngược
lại, đó là những chỉ báo về nguy cơ đình lạm của nền kinh tế. Trong khi
ngân hàng ứ vốn, thì các DN vẫn chưa ngớt tiếng kêu thiếu vốn, khó vay
vốn. Điều đáng lo ngại hơn là rất nhiều biểu hiện cho thấy, các nhà đầu
tư, DN chưa dám vay vốn đề đầu tư sản xuất kinh doanh vì triển vọng thị
trường chưa mấy sáng sủa. Trong khi đó, từ phía các ngân hàng, dù thừa
tiền thì việc cho vay lại không hề dễ.
Nói
về tình trạng này, tại buổi làm việc giữa NHNN và TP. Hà Nội, đại diện
một DN lớn đã cảnh báo về tình trạng sợ đi vay và ngại cho vay đang cản
trở dòng vốn trong nền kinh tế. Theo đó, có một bộ phận không nhỏ cán bộ
lãnh đạo và cán bộ tín dụng của các ngân hàng lo lắng, sợ trách nhiệm
nên rụt rè trong việc quyết định các phương án cho vay của DN, khiến
nhiều DN bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Mặt khác, không ít DN cũng tỏ ra ngại
ngần, không dám vay vốn trong bối cảnh kinh tế khó khăn bởi họ vẫn chưa
tìm thấy đầu ra cho sản phẩm, vẫn loay hoay với câu hỏi “không biết vay
vốn để làm gì?”.
Bên cạnh đó,
vị doanh nhân này cũng nhấn mạnh, đang có tình trạng cái nhìn bi quan
chung về khó khăn của một bộ phản DN mà có tâm lý cảnh giác, thặt chặt
làm DN tốt cũng bị vạ lây.
Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng, các ngân
hàng vẫn đang loay hoay với nợ xấu và những nguy cơ về mất thanh khoản
và các tiêu chí an toàn chưa bền vững nên dù có vốn nhiều, lãi suất hạ,
đưa ra các gói lãi suất ưu đãi nhưng việc xét duyệt cho vay lại đang
được thắt chặt khiến cho rất ít DN đáp ứng đủ. DN đủ điều kiện thì không
cần vốn, còn DN cần vốn thì không được chấp nhận. Trong khi đó, từ phía
DN, sau thời gian dài khó khăn gần như đã kiệt sức nên chỉ làm cầm
chừng, với tâm lý nằm im chờ đợi hơn là bung ra sản xuất.
Diễn
tả tình trạng này, đại diện một hiệp hội DN từ TP. Hồ Chí Minh nói: Làm
thì phá sản, không làm thì chất lâm sàng. Theo đó, với nhu cầu thị
trường thấp, buôn bán ế ẩm trong khi lãi suất còn cao, làn sóng tăng giá
đầu vào lại tiếp tục… khiến cho các DN càng sản xuất càng lỗ, sản xuất
nhiều gây ra tồn kho lớn thì càng chóng phá sản. Ngược lại, nếu không
sản xuất thì dây chuyền máy móc sẽ xuống cấp, nhân công lành nghề bỏ đi,
bạn hàng và thị phần cũng bị tranh giành hết… Trong thế đàng nào cũng
khó buộc DN phải làm cầm chừng để giữ mình và chờ đợi.
Nhưng
chờ đợi đến bao giờ và cách nào để vượt qua chính là điều khiến DN lo
lắng. Bởi vì, nhu cầu trên thị trường hiện rất thấp. Các chỉ số về tiêu
dùng và bán lẻ đã cho thấy thị trường đang trải qua một giai đoạn rất
trầm. Điều đó cũng dễ nhận thấy trên thực tế khi tình trạng ế ẩm, tồn
kho và hiện tượng DN phá sản vẫn còn cao.
Đây
là điều đã được dự đoán, nó kết quả từ giai đoạn siết chặt tiền tệ, đầu
tư để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nhưng cũng
chính là một giai đoạn chuyển tiếp để điều chỉnh của người tiêu dùng, DN
và cả nền kinh tế. Vấn đề là giai đoạn này kéo dài bao lâu và cần có
những biện pháp gì để tháo gỡ bế tắc này. Đây chính là điều DN đang chờ
đợi trong lo lắng.
Đến
nay, lạm phát đã được kiềm chế cơ bản cho thấy mục tiêu ổn định vĩ mô
đã được đạt được và đang duy trì một cách và vững tay. Yêu cầu bức xúc
của nền kinh tế trong suốt thời gian qua là hạ lãi suất đã được thực
hiện. Qua nhiều lần điều chỉnh, trần lãi suất huy động ngắn hạn đã xuống
mức 7,5%/năm’ lãi suất cho vay cũng giảm từ 5 – 9% xuống mức 12 – 16%
tương đương mức của năm 2007.
Mới
đây nhất, Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia dự đoán lạm phát cả năm sẽ
ở mức 7%. Cũng với dự đoán này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn
Bình tiếp tục cam kết sẽ đưa lãi suất cho vay giảm xuống 9 – 11%, các
khoản lãi suất cũ về 13%. Với các yếu tố đó, điều còn lại cần phải tạo
cầu đầu ra để các DN và ngân hàng nhìn thấn triển vọng, không còn nằm im
chờ đợi mà bung ra để sản xuất kinh doanh.
Điều
đó, trông chờ lớn nhất vào việc hỗ trợ DN, kích thích sản xuất kinh
doanh. Đồng thời, xử lý tốt vấn đề nợ xấu, tồn kho của ngân hàng và DN…
Đã có rất nhiều chính sách và cơ chế xử lý được đưa ra. Vấn đề còn lại
là cần được thực thi một cách nhanh chóng và chính xác… Điều đó sẽ giúp
khơi thông các cản trở, xóa tan các lo ngại, tạo niềm tin để DN và người
dân đầu tư làm ăn thay vì nằm im và chờ đợi trong lo lắng.